Trích Sài Gòn chuyện đời của phố III – Phạm Công Luận – 2015
Ông được gọi là “thuật sĩ của sơn mài”. Trên báo Journal d’Extrême Orient người ta so sánh ông với Chagall, với Henri Rousseau. Những bức tranh treo ở nhà ông đậm chất lãng mạn, bay bổng nhưng cách trò chuyện của họa sỹ Hồ Hữu Thủ lại có phong cách tỉnh táo, khoan hòa và dung dị của một người từng trải, thích suy ngẫm, suy tư về bộ môn nghệ thuật mà ông gắn bó cả đời.
Trong phòng tranh rộng của ông trên đường Nguyễn Văn Thủ, Khách đến thăm ngồi giữa các hình tượng thiếu nữ bay lơ lửng, hoa sen nở e ấp và những mảng màu trong các bức tranh như lững lờ trôi chung quanh. Cả nền gạch và đá lót cầu thang cũng nằm trong tông màu ông biểu hiện trên các bức tranh, hồng ngọc và màu lam, chút nâu đỏ, màu hạt lựu, đỏ son, xanh úa… Hội Họa Sỹ Trẻ, cái tên đã trở thành một huyền thoại của hội họa Sài Gòn, hội họa miền Nam một thời, có ông trong đó, và Hồ Hữu Thủ cũng đã là một tên tuổi lớn của hội họa Việt đương đại.
Họa sỹ Hồ Hữu Thủ quê gốc ở Nghệ An nhưng sinh ra ở Bình Dương, cái nôi của thủ công mỹ nghệ miền Nam. Lớn lên, ông theo học trường Mỹ nghệ Bình Dương về trang trí nội thất, ngành mỹ thuật ứng dụng còn rất non trẻ lúc đó, từ 1955 đến 1959. Năm 1960, khi 20 tuổi, ông vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định để học vẽ sơn dầu. Trước đó, năm 1959, ông đã đoạt giải Nhì sáng tác hội họa ESSO, một giải hội họa có uy tín do Công ty ESSO tổ chức.
Trước 1975, hầu như các họa sỹ đều vẽ bằng sơn dầu, được coi là chất liệu “vua”. Cũng có một số họa sỹ vẽ bằng phấn tiên, màu nước hay thủ ấn họa như họa sỹ Tú Duyên. Họa sỹ Nguyễn Gia Trí, cây đại thụ sơn mài của mỹ thuật Đông Dương vẫn trung thành với sơn mài và đi theo hướng đi riêng, có nguồn khách hàng riêng. Các tác phẩm sơn mài trên thị trường hầu hết là sơn mài mỹ nghệ ở những lò nổi tiếng lúc đó như Trung tâm mỹ nghệ Mỹ Linh của họa sỹ Nguyễn Văn Minh, hãng sơn mài Thành Lễ hay hãng Trần Hà. Ngoài ra, không có mấy người sáng tác tranh sơn mài.
Khác với giới họa sỹ lúc đó, niềm yêu thích chất liệu sơn ta vẫn âm ỉ trong lòng Hồ Hữu Thủ cho dù ông không học sáng tác chuyên về chất liệu này. Suốt thời niên thiếu sống ở Bình Dương, trong cái nôi sơn mài mỹ nghệ truyền thống của miền Nam, ông nhận ra vẻ đẹp đằm sâu của sơn ta trong sáng tác. Lúc đó tuy hai miền Nam Bắc đang bị chia cắt, sơn Phú Thọ (gọi là sơn Bắc) vẫn vào được miền Nam, có thể qua đường Campuchia. Loại sơn này được dùng phối hợp với sơn Nam Vang (cũng từ Campuchia, được trồng tại chỗ), tạo nên vẻ đẹp riêng biệt của tranh và đồ mỹ nghệ của miền Nam.
Triển lãm cá nhân đầu tiên của ông được tổ chức năm 1972 ở Alliance Francais (viện Trao đổi Văn hóa Pháp) trên đường Gia Long (Lý Tự Trọng). Trong số tranh trưng bày, hầu hết là sơn dầu, có mỗi bức sơn mài lấy tên Cô gái và chim đại bàng khổ một mét và tám tấc. Trong bức này, ông vẽ một cô gái tóc dài, góc phía trên có một con chim ó, tông chính màu vàng đất. Trong đợt triển lãm, ông Tùy viên văn hóa Tòa Đại sứ Mỹ đến xem và hỏi giá. Trước giá tranh tương đương hai lượng vàng lúc đó, ông ta xin … trả góp. Cuối cùng việc mua bán không thành. Đó là câu chuyện nhắc lại cho vui, nhưng phần nào khiến Hồ Hữu Thủ tin rằng mình có thể dùng chất liệu sơn ta để làm nên những tác phẩm sơn mài mang tính mỹ thuật thực sự.
Sau 1975, các họa sỹ Sài Gòn dùng sở trường của mình kiếm sống bằng nhiều cách vì lúc đó không có thị trường tranh. Họ vẽ bìa sách, vẽ tranh cổ động, trình bày báo. Lúc đó, nền mỹ thuật miền Nam thoái trào cũng vì mất thị trường. Các hãng mỹ nghệ danh tiếng như Trần Hà, Thành Lễ sau thời gian phát triển tột đỉnh đã ngưng hoạt động. Họa sỹ Hồ Hữu Thủ tiếp tục dạy học tại Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, lúc đó đã đổi tên thành Cao đẳng Mỹ thuật TP HCM.
Đến cuối thập niên 1980, nhu cầu tranh sơn mài bỗng dâng cao từ nước ngoài, trong giới chơi tranh phương Tây và trong cộng đồng người Việt thành đạt tại hải ngoại. Họ là những người từng mơ ước có những bức tranh sơn mài cao cấp nhưng khi xưa không có điều kiện với tới. Một người Pháp tìm đến Sài Gòn và muốn mua tranh sơn mài một số họa sỹ đã từng nổi tiếng tại Sài Gòn mà ông biết tiếng như Nguyễn Phước, Nguyễn Lâm, Nguyễn Văn Rô và Hồ Hữu Thủ. Các họa sỹ này được sáng tác theo ý thích của mình, không bị áp đặt về đề tài, nội dung nhưng điều kiện tiên quyết là phải sáng tác bằng chất liệu sơn ta. Họa sỹ Hồ Hữu Thủ đón nhận cơ hội này, cảm thấy rất hạnh phúc vì đã quay trở lại thời kỳ sơn mài. Ông nắm bắt chất liệu, hứng thú đi tìm những thể nghiệm mới, những cách biểu hiện khác lạ. Ông trung thành với hội họa ấn tượng rồi nâng lên dần khuynh hướng siêu thực. Đến 1985, ông chuyển qua các đề tài trừu tượng và nhận ra rằng sơn ta có thể biểu hiện tốt điều ông nghĩ, tâm thức ông cảm nhận.
Đến một chặng đường trong sáng tác, ông không hài lòng với kỹ thuật truyền thống khi sáng tác bằng sơn ta, đó là mài phẳng để lộ các lớp sơn để thể hiện hình tượng, cảm xúc của tác giả. Ông cảm thấy cách thức đó đã có những hạn chế trong biểu đạt nên mạnh dạn cải tiến trên nền chất liệu sơn ta, vóc. Không nhất thiết phải mài tất cả, có thể không mài hay có khi chỉ một phần. Có thể dùng các chất liệu khác như bao bố, gỗ dán lên mặt tranh… Tất cả đều có thể là phương tiện biểu đạt, miễn hài hòa với nhau trong tranh và diễn tả được điều muốn thể hiện. Ông tự gọi đó là sơn ta tổng hợp cho những bức tranh của ông. Đối với riêng ông, đã qua thời kỳ sơn mài.
Năm mươi năm trước, thời sáng tác trong Hội Họa sỹ Trẻ là thời kỳ hạnh phúc của Hồ Hữu Thủ, một sinh viên xa nhà tắm mình trong không khí nghệ thuật của Sài Gòn đang ở thời kỳ phát triển khoáng đạt nhất, nhiều thành tựu nhất. Đó là lúc các cuộc triển lãm liên tục được tổ chức, sức sáng tạo của ông đang mạnh mẽ, lại được sự khích lệ của bạn bè nghệ thuật. Đến giai đoạn tự một mình đi trên con đường cải tiến nghệ thuật, ông sáng tác bằng sơn ta với phong cách riêng biệt, tự tạo dựng bằng những kỹ thuật riêng biệt. Hẳn ông cũng đơn độc trên con đường đó, nhưng giá của nó là sự thành công khi ta nhìn những bức tranh ấn tượng hay trừu tượng bằng chất liệu sơn ta tổng hợp của ông.
Hồ Hữu Thủ thích kể một câu chuyện cũ. Tại nhà ông, một vị khách là dân kinh doanh vốn mê tranh, sau khi đi một vòng đã chỉ một bức trừu tượng bằng chất liệu sơn dầu và nói với ông: “Tôi thích bức tranh này nhất trong tất cả các bức!”. Nhưng sau đó, ông ta bộc bạch: “Nhưng nói thật, tôi không hiểu anh vẽ cái gì!’’. Hồ Hữu Thủ trả lời: ‘’Anh không biết cũng phải, vì tôi cũng không biết tôi vẽ cái gì!’’. Ông nhớ câu chuyện đó như một ví dụ, là chỉ có thể hiện bằng tâm thức mới có sức mạnh lớn lao để truyền cảm xúc đến người thưởng lãm tranh. Ông nguyện đi theo con đường đó.
Cách nay đúng 20 năm, 1995, tôi thường lui tới Clay gallery củ nghệ sỹ người Mỹ gốc Việt Khưu Đức ở đường Trần Cao Vân. Ở đó, tôi xem tranh của Đinh Cường vẽ trên miếng phim, tranh sơn mài bán trừu tượng vẽ bình gốm của họa sỹ Nguyễn Lâm và tranh sơn-không-mài trừu tượng của Hồ Hữu Thủ. Những bức tranh của Hồ Hữu Thủ không dễ cảm nhận lúc đó, nhưng sau hai mươi năm nhìn lại sáng tác sau này, dễ thấy rằng dù ấn tượng hay trừu tượng, có hình hay không có hình, tranh của ông tươi tắn hơn, trẻ trung hơn, mềm mại hơn, có sức sống hơn cho dù ông đã có tuổi. Đó là cảm nhận của riêng tôi.
Sài Gòn có một nền mỹ thuật có những giai đoạn đáng tự hào, đó là giai đoạn từ đầu thập niên 1960, trong đó có sự đóng góp của Hội Họa sỹ Trẻ, của Hồ Hữu Thủ, một người thích tìm con đường riêng cho mình trong sáng tác, có tài năng lớn. Ông đã sáng tác nên một thế giới mà trong đó “Người, vật, thiên nhiên đều đã được lựa chọn và biểu tượng hóa, không còn hợp lý với cái nhìn bình thường, tất cả đều hiện ra trong một bầu không khí chung đẹp đẽ, tươi mát, hồn nhiên, tổng hòa trong một bút pháp vừa thực vừa siêu thực, để đi tới cái đẹp tinh túy của nghệ thuật tượng trưng”, như lời nhà phê bình Huỳnh Hữu Ủy đánh giá một các đầy đủ.